KHÔNG GIAN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
“Bác Hồ với Văn hóa nghệ thuật”

TT HỖ TRỢ HSSV TP

LỜI GIỚI THIỆU

    Một trong những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh, nhiệm kỳ 2020 – 2025 đặt ra là xây dựng “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” tại Thành phố mang tên Bác. Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh là sự lan tỏa tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, làm cho nét đẹp văn hóa, con người Hồ Chí Minh thấm sâu vào con người thành phố. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ - Một trong những lực lượng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
    Văn hóa Hồ Chí Minh về “Văn hóa đọc và Văn hóa nghệ thuật” là một phần nhỏ trong không gian Văn hóa Hồ Chí Minh thể hiện được đặc điểm, tính chất, giá trị riêng chứa đựng nhiều nét đặc sắc, sáng tạo trong tư tưởng, đạo đức, phong cách và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính điều đó, góp phần tạo nên giá trị đặc biệt về con người và cốt cách Hồ Chí Minh.
   Chào mừng kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024) và kỷ niệm 113 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911 - 05/6/2024), nhằm tuyên truyền, tăng mức độ tiếp cận, tìm hiểu các thông tin và có cái nhìn rõ hơn về những mảnh ghép chân thực trong con người, cốt cách Hồ Chí Minh đối với thế hệ hiện nay Trung tâm Hỗ trợ học sinh, sinh viên TP.HCM xây dựng “Không gian Văn hoá Hồ Chí Minh” trực tuyến.

GIÁ TRỊ VÀ BẢN SẮC – KHÔNG GIAN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

TẠO SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ NHẬN THỨC

  Việc làm cho môi trường sống thành phố chứa đầy giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hình thành “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh”, làm cho nét đẹp văn hóa, con người Hồ Chí Minh thấm sâu hơn nữa vào con người thành phố và trở thành nguồn sức mạnh đặc thù của con người thành phố là vấn đề lớn. Và nếu làm tốt sẽ có ý nghĩa lớn lao, góp phần xây dựng, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, đặc trưng con người TPHCM trong thời kỳ mới. Vấn đề đặt ra là phải tạo cho được sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị, toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và trong mỗi người dân, để tất cả cùng nhau kiến tạo thành công “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh” - không gian văn hóa của một đô thị lớn vào loại đặc biệt của Việt Nam.

PHÁT HUY TỐI ĐA GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT

  Trong tiến trình xây dựng và phát triển không gian đô thị ở TPHCM, việc xây dựng một “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh” là điều cần thiết cho thành phố mang tên Bác. Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò cũng như giá trị của không gian trên trong không gian văn hóa công cộng ở TPHCM, trước hết cần có một bản đồ quy hoạch cụ thể và hợp lý về không gian, chia ra những khu vực cố định và khu vực thay đổi linh hoạt. Từ đó, xây dựng hội đồng chuyên môn có sự liên kết và đồng bộ giữa mỹ thuật, kiến trúc, quy hoạch…
  Hội đồng chuyên môn thẩm định các tác phẩm trưng bày công cộng, sẽ đưa ra phác thảo thiết kế phù hợp đặt ở những không gian trang trọng, vừa mang tính thẩm mỹ, vừa mang lại hiệu quả tuyên truyền, giáo dục về văn hóa, lịch sử… Ở những không gian thay đổi linh hoạt, hội đồng cũng kiểm duyệt các tác phẩm trước khi trưng bày để phát huy tối đa giá trị nghệ thuật, đảm bảo nhu cầu thưởng thức cho người dân.

MANG NÉT RIÊNG CỦA ĐẤT VÀ NGƯỜI NAM BỘ

  TPHCM có vị trí vô cùng quan trọng khi là trung tâm kinh tế - xã hội hàng đầu cả nước. Việc thành phố được mang tên Bác - danh nhân văn hóa thế giới - vô cùng đặc biệt, trở thành động lực phát triển cho thành phố, trở thành niềm tự hào của người dân.
TPHCM có rất nhiều yếu tố để thu hút người dân từ mọi nơi đến sinh sống, làm việc. Một đô thị hiện đại, đa văn hóa, đa dân tộc đã tạo nhiều điều kiện cho người dân phát triển, thể hiện sức sáng tạo trong công việc. TPHCM có rất nhiều điểm đặc thù như thế, và điều quan trọng là làm sao để làm rõ nét hơn, tạo ra “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh”.
Nhiều không gian văn hóa công cộng hiện nay đã phát huy được công năng như phố đi bộ Nguyễn Huệ, đường sách TPHCM… Những con đường, phố đi bộ đó đã rất đẹp rồi và cần tìm cách để không gian văn hóa ấy có nét riêng của người Nam bộ, của thành phố mang tên Bác. Để thành phố cuốn hút, tạo được động lực, phải tìm ra những nét riêng của thành phố, tạo những sản phẩm văn hóa đặc thù “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh”. Ví dụ như sự năng động, cởi mở, hiện đại, văn minh và nét nghĩa tình phải nổi lên. Nghĩa tình người Nam bộ nói chung và TPHCM nói riêng trong các không gian công cộng cần được thể hiện rõ, là sự cởi mở, sự gần gũi…

LAN TỎA CHƯƠNG TRÌNH NGHỆ THUẬT ĐẾN NGƯỜI TRẺ

  Mỗi quốc gia đều rất chú trọng xây dựng, gìn giữ và phát triển không gian văn hóa để phục vụ du khách và người dân địa phương. Đó là bộ mặt văn hóa, có vai trò cực kỳ quan trọng trong hành trình phát triển của một thành phố và của cả một đất nước. Để xây dựng một “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh”, cần thiết phải có hàng loạt thiết chế văn hóa tương xứng.
  Từ thực trạng rạp hát còn nhiều ngổn ngang hiện nay, không gian văn hóa biểu diễn trong rạp lý tưởng nhất hiện tại vẫn là Nhà hát Thành phố. Không gian văn hóa ngoài trời nên chọn phố đi bộ Nguyễn Huệ để phát huy sức lan tỏa của các chương trình nghệ thuật đến rộng rãi công chúng, nhất là với người trẻ. Khi điều kiện kinh tế còn giới hạn, có thể tổ chức ít nhất mỗi quý một lần, nhưng phải duy trì thường xuyên, định kỳ.
  Thực tiễn, mỗi năm, các đơn vị nghệ thuật xã hội hóa xây dựng rất nhiều chương trình, kịch mục đa dạng, nhiều phong cách, vậy nên có thể chọn lựa chương trình nào thật sự chất lượng và hấp dẫn để tổ chức biểu diễn tại không gian văn hóa này, hoặc có thể xây dựng các chương trình nghệ thuật theo chủ đề, như theo mùa xuân, hạ, thu, đông…
  Quan trọng hơn hết chính là lãnh đạo TPHCM phải có sự định hướng rõ ràng, cụ thể, mang tính chiều sâu, chiến lược, lâu dài, trong xây dựng và phát triển “Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh”, tạo nên những địa điểm thưởng thức văn hóa nghệ thuật miễn phí, thường xuyên, cố định, phục vụ cộng đồng.

THÊM CÁC KHÔNG GIAN VĂN HÓA MỞ

  Ngoài Bảo tàng Hồ Chí Minh nằm ở vị trí gắn liền lịch sử, nếu muốn đến thăm, tìm hiểu những nơi Bác từng dừng chân hay những không gian văn hóa gắn liền với Bác thật sự chưa nhiều, nếu không muốn nói là hiếm hoi. Thiết nghĩ, thành phố nên lập thêm những không gian văn hóa mở, ở nhiều khu vực khác nhau để thu hút người dân, đặc biệt những người trẻ.
  Đặc biệt, cần có thêm nhiều chương trình nghệ thuật, nhất là các chương trình mang tính định kỳ, được biểu diễn tại các sân khấu công cộng. 
  Với sự phát triển của công nghệ, việc tạo nên những chương trình mang tính trực quan, sinh động, kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống, sân khấu thực cảnh, là điều nên làm. Những chương trình nghệ thuật đó không chỉ đơn giản để khán giả được xem, được nghe mà còn mang đến cho họ cơ hội trải nghiệm, tương tác, đưa họ về với không gian của quá khứ, lịch sử.

BÁC HỒ VỚI VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nghệ thuật

Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tư tưởng “soi đường” về văn hóa, nghệ thuật
(LLCT) - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, Dân tộc ta, Nhân dân ta hệ thống di sản lý luận trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bài viết tập trung làm rõ những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nghệ thuật, những tư tưởng này có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta lãnh đạo xây dựng nền văn hóa, nghệ thuật trong tiến trình cách mạng, đặc biệt là gần 35 đổi mới vừa qua.

Lúc sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh ... là một kho tàng đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là giá trị văn hóa”(1). Tìm hiểu và học tập tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa, nghệ thuật là hướng tiếp cận để khám phá “kho tàng đầy của báu” trong tư tưởng của Người.

Thu gọn

Đọc thêm

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tư tưởng “soi đường” về văn hóa

- Văn hóa là “toàn bộ những sáng tạo và phát minh” của con người

Nếu chúng ta chú ý thì ở trang cuối của cuốn sổ ghi chép những bài thơ trong tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm về văn hóa, phương thức hình thành, xây dựng nền văn hóa và ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(2).

Có thể nói, đây là một cách hiểu văn hóa theo nghĩa đầy đủ, toàn diện, hoàn chỉnh nhất. Theo đó, văn hóa là toàn bộ những sáng tạo và phát minh (giá trị) của con người tạo ra trong quá trình lịch sử, bằng lao động của mình, trên cả hai lĩnh vực sáng tạo (giá trị) vật chất “những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng” và sáng tạo (giá trị) tinh thần “ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,...”, nhằm đáp ứng “lẽ sinh tồn”, đồng thời cũng là “mục đích của cuộc sống” con người. Văn hóa, đó là sự tổng hợp, là toàn bộ những phương thức sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần cùng với những biểu hiện của các phương thức ấy nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn của con người. Với Hồ Chí Minh, văn hóa là sự sáng tạo, là phát minh của con người, là lẽ sinh tồn, cũng là mục đích, ý nghĩa của cuộc sống. Văn hóa là cơ sở tạo nên đời sống xã hội, là đặc trưng của xã hội loài người. Quan trọng hơn, con người vừa là chủ thể của văn hóa vừa là sản phẩm của văn hóa. Từ quan niệm trên đây, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã xem xét văn hóa trên hai mặt: Một mặt (nghĩa hẹp), là sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu như: ngôn ngữ, đạo đức, lối sống, giáo dục, khoa học, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,... Mặt khác (nghĩa rộng), là toàn bộ những sáng tạo vật chất và sáng tạo tinh thần của con người.

Năm 1988, Federico Mayor, Tổng Giám đốc Tổ chức UNESCO cũng nhấn mạnh bản chất sáng tạo của văn hóa, khi cho rằng: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”(3). Như vậy, từ rất sớm, danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh đã khẳng định văn hóa có bản chất là sáng tạo, là phát minh của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hóa.

- Văn hóa phải được “coi trọng ngang chính trị, kinh tế, xã hội”

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(4). Như vậy, văn hóa được Người quan niệm như là một trong bốn lĩnh vực cấu thành đời sống xã hội và văn hóa cần phải được coi trọng ngang với chính trị, kinh tế, xã hội. Tư tưởng của Người một mặt nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa, ngang với các lĩnh vực trọng yếu khác, mặt khác phê phán việc (bệnh) coi nhẹ lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa như lĩnh vực phụ, ăn theo các lĩnh vực khác, không thấy vai trò nền tảng, vai trò sáng tạo, dẫn dắt của văn hóa. Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã xác định quan điểm chỉ đạo: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(5). Đúng vậy, nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Và với tính cách là nền tảng tinh thần của xã hội thì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hóa chính là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh; không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện (chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,...) trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội. Động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng phải được tìm trong văn hóa, trong nguồn lực con người, trong tiềm năng sáng tạo của con người và trong các giá trị di sản văn hóa của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế, chạy theo tăng trưởng kinh tế với bất cứ giá nào; không phải là hy sinh mặt xã hội, hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Phát triển phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì tự do, hạnh phúc của con người, vì phúc lợi của Nhân dân. Đây mới là sự phát triển bền vững, toàn diện, bao trùm mà Bác Hồ và Đảng ta nhất quán chủ trương.

- Văn hóa “soi đường cho quốc dân đi”

Vai trò của “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”(6), soi đường cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên từ rất sớm, ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1946. Nói đến văn hóa không thể không nói đến hệ tư tưởng, vì hệ tư tưởng là “cốt lõi” của văn hóa, chi phối quan niệm về giá trị tinh thần, về đạo đức, lối sống và hành vi con người. Hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, định hướng mọi hoạt động của con người, định hướng toàn bộ hoạt động và sự phát triển của xã hội ta. Nói đến văn hóa là nói đến đạo đức. Đạo đức điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người và xã hội, hướng đến và làm theo cái thiện, cái tốt, lương tâm và thiện lương. Nói đến văn hóa không thể không nói đến khoa học. Bởi lẽ, khoa học là sáng tạo và khát khao của con người vươn tới cái đúng, chân lý khách quan, phá vỡ mọi điểm mờ, mọi điểm mù của sự sống, cuộc sống. Nói đến văn hóa cũng là nói đến pháp luật. Pháp luật điều tiết, điều chỉnh hoạt động của con người và xã hội, đảm bảo cho mọi người “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, tôn trọng chuẩn mực và nguyên tắc chung của cộng đồng xã hội, luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Đề cập đến văn hóa cũng chính là đề cập đến văn học nghệ thuật, lĩnh vực nhạy cảm và tinh tế nhất của văn hóa, lĩnh vực có năng khả dự báo, khả năng phản ánh vượt trước, có tác động sâu sắc đến đời sống tầm hồn và tình cảm của con người. Văn hóa (với các thành tố cấu thành cơ bản nêu trên) dẫn dắt, định hướng sự phát triển của con người và xã hội.

Để “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, theo Hồ Chí Minh, phải: “1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng; 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; 4-Xây dựng chính trị: dân quyền; 5-Xây dựng kinh tế”(7). Như vậy, xây dựng văn hóa là tiến hành xây dựng đồng bộ và toàn diện về tâm lý, luân lý, xã hội, về chính trị và kinh tế. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: Để văn hóa soi đường cho quốc dân đi, mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành phải là tấm gương để mọi người noi theo: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(8).

- Văn hóa “là một mặt trận”

Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận”(9). Luận điểm của Người đã khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của lĩnh vực văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa mặt trận văn hóa và các mặt trận khác như kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự, ngoại giao,... “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(10). Văn hóa là một mặt trận đấu tranh đầy cam go, quyết liệt, khó khăn giữa cũ và mới; giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa tích cực và tiêu cực; giữa tiến bộ và lạc hậu; giữa văn hóa XHCN và văn hóa phi XHCN. Văn hóa cũng là mặt trận đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn hóa và toàn quân, toàn dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”, góp phần quan trọng vào việc nhân đạo hóa con người, cổ vũ con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Mặt trận văn hóa, văn nghệ phải gắn bó mật thiết với đời sống, phải “gắn liền với lao động, sản xuất, văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông”(11). Văn hóa phải thấu hiểu và đi sâu vào đời sống, “bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”(12). Nền văn hóa, văn nghệ sở dĩ có thể có sức mạnh và khả năng to lớn trong việc “nhận thức, khám phá và sáng tạo” đời sống, là vì đó là nền văn hóa, văn nghệ XHCN. Hồ Chí Minh cho rằng: “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”(13). Đây là một tư tưởng văn hóa quan trọng của Người, vừa tiếp nối vừa nâng lên một tầm cao mới tư tưởng về một nền văn hóa dân tộc - khoa học - đại chúng mà Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) của Đảng chỉ ra. Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, khi xác định: “Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới XHCN, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”(14).

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tư tưởng “soi đường” về văn học, nghệ thuật





















Còn trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người đưa ra luận điểm nổi tiếng: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(15). Người nghệ sĩ, trí thức hoạt động trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật trong quan niệm của Hồ Chí Minh chính là những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ. Người chiến sĩ ấy có nhiệm vụ sử dụng ngòi bút của mình để “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”(16). Người nghệ sĩ - chiến sĩ phải là người có lập trường tư tưởng vững vàng, đúng đắn, sáng tạo nghệ thuật đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết: “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân... văn nghệ sĩ nhất định sẽ tiến bộ hơn nữa, đồng thời có lực lượng mà giúp đỡ nhân dân tiến bộ hơn nữa”(17). Về mối quan hệ khăng khít giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh cho rằng: “Dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”(18). Gắn bó với cách mạng, gắn bó với Nhân dân, “cùng xương cùng thịt với Nhân dân. Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu” với Nhân dân (Xuân Diệu) là cứu cánh của người nghệ sĩ cách mạng. Hồ Chí Minh nhắc nhở, bên cạnh việc không ngừng trau dồi phẩm chất chính trị tư tưởng và đạo đức cách mạng, người nghệ sĩ kiểu mới phải không ngừng nâng cao trình độ, “trau dồi nghiệp vụ” nghệ thuật.

Quan điểm về người nghệ sĩ - chiến sĩ là đóng góp có ý nghĩa cách mạng của Hồ Chí Minh về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới ở nước ta. Hồ Chí Minh đã đề xuất và khẳng định một chủ thể sáng tạo văn hóa, văn nghệ kiểu mới trong lịch sử văn hóa, văn nghệ dân tộc. Đó là người nghệ sĩ có lý tưởng cách mạng đúng đắn, trong sáng về đạo đức, cao đẹp về tâm hồn và có tài năng nghệ thuật xuất sắc.

- Về tác phẩm nghệ thuật

Hồ Chí Minh có những quan niệm rất sâu sắc về định hướng giá trị của tác phẩm văn nghệ trong thời đại cách mạng mới. Người đặc biệt coi trọng và đề cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn nghệ. Người đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn hiện thực sôi động của cách mạng, của Nhân dân, và đấy là những phẩm chất quan trọng nhất của tác phẩm nghệ thuật. Người nói: Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như một tác phẩm hay. Tác phẩm nghệ thuật phải chân thực và phong phú, bởi đó là tiêu chuẩn tối quan trọng của tác phẩm nghệ thuật. Chân thực và phong phú trong nội dung phản ánh cuộc sống con người. Chân thực và phong phú trong hình thức sáng tạo nghệ thuật. Theo Người, tác phẩm “nghệ thuật phải gần với cuộc sống”, phải phản ánh hùng hồn cuộc sống và con người Việt Nam, phải “ca tụng chân thực những tấm gương của đời sống”; ca tụng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam để “quần chúng noi theo”. Đồng thời, Người cũng yêu cầu nghệ sĩ không né tránh sự thật trong khi phản ánh đời sống. Người nói: Đừng bỏ qua ngóc ngách gay cấn nào hết, đừng yên lặng làm ngơ chuyện gì hết: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta, của bạn ta. Đồng thời, phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu”(19).

Người chỉ rõ: trong thời kỳ xây dựng CNXH, bên cạnh những thành tích tốt đẹp là chính còn sót lại “những cái xấu xa của xã hội cũ như: tham ô, lãng phí, lười biếng, quan liêu, đánh con, đập vợ, v,v.. Đối với những thói xấu đó, văn nghệ cũng cần phải phê bình rất nghiêm khắc, nhằm làm cho xã hội ta ngày càng lành mạnh tốt đẹp hơn”(20).

Theo Hồ Chí Minh, tác phẩm nghệ thuật không chỉ cần chân thật, hùng hồn, phong phú mà còn cần phải có hình thức trong sáng và vui tươi, nhờ đó tác phẩm nghệ thuật mới hay. Tác phẩm văn nghệ phải là sự thống nhất hoàn hảo giữa nội dung và hình thức. Chính bởi sự thống nhất ấy mà tác phẩm nghệ thuật mới thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh của Nhân dân, “khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”.

Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đề ra những tiêu chuẩn rất cao về giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Hay, chân thật, hùng hồn, phong phú, trong sáng, vui tươi... là những giá trị cơ bản của tác phẩm văn nghệ. Để có những giá trị ấy, Người yêu cầu phải chống lại các xu hướng không lành mạnh trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là bệnh sơ lược, bôi đen, tô hồng, rỗng tuếch về nội dung, cầu kỳ, phô trương về hình thức...

- Về quần chúng Nhân dân - đối tượng phục vụ của nghệ thuật

Với Hồ Chí Minh, văn hóa, văn nghệ phải phục vụ đông đảo quần chúng Nhân dân. Quần chúng Nhân dân là đối tượng phục vụ của văn nghệ cách mạng. Người nói: “... không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật, mà cần nói rõ văn hóa phục vụ công nông binh”(21). Nghệ thuật chân chính cốt để phục vụ Nhân dân. Nghệ thuật cách mạng phải nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần - thẩm mỹ của đại đa số Nhân dân. Như vậy, người nghệ sĩ - chiến sĩ phải luôn luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể kể một cách chân thực hơn, chân thành hơn cho Nhân dân nghe về những nỗi lo âu và những suy nghĩ của họ. Hồ Chí Minh quan niệm, quần chúng Nhân dân và cuộc sống hằng ngày của họ là đề tài vô tận để các nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Đó “là kho nguyên liệu vô tận cho những tác phẩm xuất bản”. Khi đặt câu hỏi: Nghệ sĩ lấy tài liệu ở đâu mà viết? Người chỉ rõ: Muốn có tài liệu phải nghe đồng bào, chiến sĩ, hỏi Nhân dân, phải thấy, xem, ghi, chép... Người khẳng định: “Chỉ có Nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - Nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(22).

Không chỉ là đối tượng phản ánh chủ yếu của nền văn nghệ mới, quần chúng Nhân dân, theo Người, còn là người thưởng thức, kiểm nghiệm và đánh giá sản phẩm nghệ thuật sâu sắc nhất. Tất cả những giá trị, văn hóa tồn tại qua những thay đổi khắc nghiệt của thời gian đều do quần chúng Nhân dân lưu giữ sử dụng, bảo quản, giữ gìn và truyền tụng. Người căn dặn văn nghệ sĩ trong mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết của mình phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng. Theo Người, quần chúng Nhân dân - đối tượng phản ánh của văn nghệ cách mạng, chủ thể thưởng thức, chủ thể kiểm nghiệm (đánh giá, phê bình văn nghệ) cũng đồng thời còn là chủ thể sáng tạo nghệ thuật: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo (...). Quần chúng (...) là người sáng tác (...) những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”(23).

- Về lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ

Lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ - một lĩnh vực cực kỳ tinh tế và nhạy cảm, cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội. Người khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(24). Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với hoạt động văn hóa, văn nghệ là tất yếu khách quan trong thể chế Nhà nước ta. Lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ bằng đường lối chính trị, bằng thể chế, pháp luật nhà nước, bằng sự quan tâm động viên, khích lệ, bằng sự am hiểu sâu sắc và đồng cảm, trân trọng sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ...

Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng ngời về mối quan hệ nồng hậu đối với văn nghệ sĩ trong và ngoài nước. Người quan tâm toàn diện đến đời sống của họ. Người đã nâng địa vị của người nghệ sĩ lên vị trí xứng đáng - người chiến sĩ nghệ thuật, người kỹ sư tâm hồn, người góp phần làm chủ vận mệnh văn nghệ dân tộc. Người luôn lưu ý: Một nền văn nghệ phát triển lành mạnh phải là nền văn nghệ dân chủ. Đảng và Nhà nước phải đảm bảo môi trường tự do, dân chủ cho hoạt động sáng tạo của văn nghệ sĩ. Bảo đảm tự do sáng tạo gắn liền với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm nghệ sĩ - chiến sĩ của họ. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Người đã căn dặn nhà văn Nguyễn Công Hoan, khi đó phụ trách công tác kiểm duyệt thông tin, báo chí, văn hóa, văn nghệ: “Kiểm duyệt với báo chí phải thân với nhau. Người ta đã đặt hết tâm trí mới viết ra bài, cũng như đẻ được đứa con. Nay mình thấy cái mặt, cái tay đứa bé có vết hoặc có ghẻ, thì mình phải bảo người ta chữa, và chữa như thế nào. Nếu mình lại chặt cái mặt, cái tay ấy đi, thì đứa bé còn ra hình thù gì nữa. Đời nào bố mẹ nó lại đồng tình với mình được. Mà nhân tình thế thái như vậy, dù đứa con hư dại mấy, thì bố mẹ cũng yêu và bênh con. Vậy thì người ta sẽ oán. Chú có biết họ oán ai không?”. (Nhà văn Nguyễn Công Hoan đáp: Thưa Cụ, oán chính quyền ta ạ) và Người nói tiếp: “Phải, chứ không oán chú đâu. Chính quyền là của Nhân dân, cơ quan ngôn luận cũng là Nhân dân. Chính quyền phải giúp ngôn luận tiến bộ”(25). Với Hồ Chí Minh, văn nghệ là một sinh mệnh. Vì vậy, lãnh đạo, quản lý văn nghệ phải giúp cho “sinh mệnh” văn nghệ phát triển lành mạnh, toàn diện.

Quan điểm, tư tưởng về văn hóa nghệ thuật của Hồ Chí Minh luôn luôn có ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa, văn nghệ cách mạng nước ta. Các Văn kiện của Đảng về văn hóa, văn nghệ thời kỳ đổi mới, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã kế thừa, bổ sung và làm phong phú tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nghệ thuật. Quán triệt và thực hiện thành công các Nghị quyết quan trọng này là góp phần thực hiện những chỉ dẫn quý báu của Người về văn hóa, nghệ thuật. Đó cũng là những việc làm hết sức ý nghĩa trong việc góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật hiện nay.

                                                                                                Nguồn: Trang lý luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí minh.
Khi bàn về các yếu tố của đời sống văn học nghệ thuật, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới chủ thể sáng tạo (nghệ sĩ); tới tác phẩm nghệ thuật - sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ; tới công chúng nghệ thuật - người thưởng thức, kiểm nghiệm (sáng tạo) nghệ thuật và công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ.

- Về người nghệ sĩ - chiến sĩ

Lần đầu tiên trong lịch sử văn nghệ nước ta, Hồ Chí Minh gọi những nhà sáng tạo văn hóa nghệ thuật, những nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật. Năm 1943, trong bài thơ Cảm tưởng đọc Thiên gia thi (Khán thiên gia thi hữu cảm), Hồ Chí Minh đã nêu lên ý tưởng về người nghệ sĩ - chiến sĩ, khi viết:

“Nay ở trong thơ nên có thép

 Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

BÁC HỒ - NGƯỜI NGHỆ SĨ VỚI NHỮNG ĐIỀU BÌNH THƯỜNG VĨ ĐẠI

Phim tài liệu: Sức sống của một bản Tuyên ngôn
(Nguồn: Trung tâm tư liệu Đài Truyền hình Việt Nam)

Phim tài liệu: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
(Nguồn: Viện phim Quốc gia)

Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở khởi nguồn tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, là sự tiếp thu, kết tinh những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và những phẩm chất, cốt cách hơn người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên cơ cở phân tích những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (Chương II), cuốn sách khẳng định những sáng tạo trong tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc (Chương III). Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống các quan điểm của Người về mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa; về con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; về lực lượng giải phóng dân tộc; về phương pháp, phương thức tiến hành cách mạng, khởi nghĩa vũ trang toàn dân… Đây cũng chính là những luận điểm hết sức sáng tạo của Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua 5 nội dung cơ bản: một là, sáng tạo trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam; hai là, sáng tạo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thế giới; ba là, sáng tạo trong xây dựng đảng chính trị ở một nước thuộc địa; bốn là, sáng tạo trong việc xây dựng, tổ chức lực lượng cách mạng; năm là, sáng tạo trong sử dụng phương pháp cách mạng.
Về phương diện lý luận, những cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa; bổ sung và phát triển kho tàng lịch sử quân sự hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam; góp phần làm phong phú kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của các nước anh em trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Từ khía cạnh thực tiễn, giá trị của những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất ở sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta. Trải qua quá trình phát triển và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, chính là câu trả lời của thực tiễn đối với lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, chứng minh đó là quan điểm đúng đắn, cách mạng, khoa học và nhân văn.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc thêm và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với những nội dung, yêu cầu có tính nguyên tắc sau: Thứ nhất, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”; Thứ ba, lấy dân làm gốc, phát huy dân chủ, tăng cường đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Với những nội dung được nghiên cứu và trình bày, cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn là tài liệu tham khảo hữu ích giúp bạn đọc tiếp tục luận giải những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, đồng thời cung cấp cơ sở lý luận cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước hiện nay.

TÁC PHẨM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Với 3 chương sách, tác giả đã tập trung làm rõ những khái niệm cơ bản, cơ sở hình thành, bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh; nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ Chí Minh; từ đó, khẳng định những giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Triết lý hành động Hồ Chí Minh là sự cô đúc, khái quát sâu sắc về mục tiêu, động lực, nguyên tắc, phương pháp hành động trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước thể hiện dưới dạng mệnh đề có trong các bài viết, bài nói và thông qua hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp và phân tích, tác giả chỉ ra những nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ Chí Minh bao gồm:
Triết lý về mục tiêu hành động: Xây dựng sự thống nhất và nền độc lập thực sự của dân tộc chính là mục tiêu đầu tiên trong triết lý hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người hiểu rõ độc lập dân tộc là điểm khởi đầu, là điều kiện tiên quyết để mang đến tự do, dân chủ và hạnh phúc cho Nhân dân. Nhưng khi đất nước được độc lập rồi thì tự do, hạnh phúc, dân chủ lại trở thành mục tiêu tập trung của mọi hành động. Đây là mục tiêu tập trung, xuyên suốt nhất và Người đã dồn tất cả tâm huyết, sức lực để đạt được mục tiêu đó.
Triết lý về động lực hành động: Đó là động lực từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, từ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, từ thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân, động lực lợi ích và động lực văn hóa. Mỗi động lực cách mạng có cách thức thể hiện, biểu đạt, phát huy riêng, nhưng luôn thống nhất chặt chẽ, là sự kết hợp nhuần nhuyễn của đạo đức cách mạng và tri thức văn hóa cách mạng trong mỗi con người.
Triết lý về nguyên tắc hành động: Tác giả chỉ ra 5 nội dung cơ bản về nguyên tắc hành động Hồ Chí Minh, đó là: nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; nguyên tắc kiên định mục tiêu hành động; nguyên tắc đồng thuận, thống nhất trong hành động; nguyên tắc nói đi đôi với làm và chí công vô tư.
Về phương pháp trong triết lý hành động Hồ Chí Minh: Với việc phân tích phương pháp hình thành triết lý về mục tiêu hành động, phương pháp phát huy triết lý về động lực hành động, phương pháp quán triệt nguyên tắc hành động, có thể thấy, nội dung phương pháp hành động cũng quán triệt mục tiêu vì Nhân dân, lấy Nhân dân làm trung tâm. Phát huy vai trò của Nhân dân, tự do, hạnh phúc của Nhân dân là trọng tâm để xác định phương pháp hành động.
Có thể khẳng định, mục tiêu, động lực, nguyên tắc, phương pháp hành động là một thể thống nhất, làm nên triết lý hành động Hồ Chí Minh. Phát huy các giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ góp phần đem lại những thắng lợi có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh cách mạng và sự phát triển của dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa đối với việc hoạch định kế hoạch hành động cho phù hợp với đường lối, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

TÁC PHẨM TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

Cuốn sách do dịch giả Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn Văn Minh dịch từ nguyên bản tiếng Nga, PGS.TS Nguyễn Xuân Hòa hiệu đính ra mắt bạn đọc nhân dịp kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023) và kỷ niệm quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam - Liên bang Nga (23/5/1950 - 23/5/2023).
Tác phẩm đặc biệt này bao gồm 17 hồi ký của các tướng lĩnh, những nhà hoạt động cách mạng, những nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của nước Nga, những người đã từng được làm việc, gặp gỡ, tiếp xúc và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh qua nhiều giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Người.
Đây là tư liệu rất quý báu ghi lại những ấn tượng sâu đậm và chân thực nhất của những người Nga về Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi Người còn là một nhà hoạt động cách mạng bí mật, đến khi trở thành một vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam.
Điểm trùng hợp trong câu chuyện của các tác giả, những người đã trực tiếp được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, hồi tưởng về Người, là những ấn tượng sâu đậm về sự giản dị, chân thành, chu đáo của một bậc chân nhân; sự minh triết của một trí thức lớn, một tâm hồn cao đẹp kết tinh từ những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.
17 câu chuyện, 17 dòng hồi ức... không hề cầu kỳ tô vẽ, đã tái hiện bức chân dung sống động của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ nhiều góc độ, trong nhiều cảnh huống khác nhau, nổi bật lên tất cả là một con người vĩ đại, lớn lao mà bình dị, chân thành. Một trí thức lớn mang tâm hồn cao đẹp kết tinh từ những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua đó, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân Nga đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với dân tộc Việt Nam.
Tập hồi ký "Người Nga viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh" không chỉ là một món quà quý báu nhân dịp nhân dân Việt Nam kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn là sợi dây kết nối, góp phần làm bền chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nhà nước, hai dân tộc Việt Nam - Liên bang Nga.

TÁC PHẨM NGƯỜI NGA VIẾT VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

NNhân kỷ niệm 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023); thiết thực triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh," Nhà xuất bản Thông tấn thuộc TTXVN đã xuất bản và giới thiệu tới bạn đọc cả nước cuốn sách "Hồ Chí Minh: Danh ngôn tư tưởng và đạo đức".
Cuốn sách do giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Như Ý (chủ biên) dày công sưu tầm, chọn lọc, sắp xếp, suy ngẫm từ hơn 10.000 trang sách trong 15 tập Hồ Chí Minh toàn tập (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011) để rút ra gần 5000 câu danh ngôn (hoặc có tính chất danh ngôn) trong minh triết Hồ Chí Minh.
Nhà xuất bản Thông tấn hy vọng cuốn sách "Hồ Chí Minh: Danh ngôn Tư tưởng - Đạo đức" sẽ trực tiếp góp phần làm cho minh triết Hồ Chí Minh đi vào đời sống của dân tộc, của người dân Việt Nam như một sức mạnh, một động lực, củng cố niềm tin khoa học vững chắc để dân tộc ta đi tới, đi đúng, đi xa hơn nữa vì mục đích cao đẹp mà cả đời mình Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi "phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân."
Qua cuốn sách có thể thấy những nội dung căn cốt nhất, cái hồn của minh triết Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động và nguyên gốc; đồng thời, qua đó, còn thấy hiện lên sáng rõ những phẩm chất vô cùng cao quý nhưng bình dị của nhân cách một con người vĩ đại - nhân cách Hồ Chí Minh.

TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH: DANH NGÔN TƯ TƯỞNG VÀ ĐẠO ĐỨC

Nội dung cuốn sách tập trung vào việc tìm hiểu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, hay còn gọi là triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, khẳng định đó là những giá trị nền tảng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, cũng như đi sâu phân tích thực trạng, tác giả đề xuất những phương hướng, nội dung, giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách gồm hai phần:
Phần một: Khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Phần hai: Một số vấn đề về giáo dục đại học Việt Nam.

TÁC PHẨM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC VIỆT NAM

VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VỚI BÁC HỒ

BÁC HỒ QUA NHỮNG TÁC PHẨM THƠ VĂN

TÁC PHẨM BÁC HỒ VỚI VĂN NGHỆ SĨ

Tư tưởng của Người về văn hóa nghệ thuật là di sản quý báu của văn hóa Việt Nam. Người đã có những chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ văn nghệ sỹ. Đối với văn nghệ sỹ, Bác không chỉ động viên khen ngợi, nhắc nhở phải phấn đấu tiến bộ không ngừng trong nghề nghiệp mà còn có những nhận xét về chuyên môn để giúp các nghệ sĩ khắc phục nhược điểm, nhằm đem lại hiệu quả cao hơn, phục vụ công chúng tốt hơn. Bác còn quan tâm đến đời sống thường ngày và quan hệ xã hội, gia đình của các văn nghệ sĩ.
Nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày Truyền thống Ngành Văn hoá (28.8.1945 - 28.8.2020) và thiết thực đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII, chuyên mục Mỗi ngày một cuốn sách trân trọng giới thiệu cuốn sách "Bác Hồ với văn nghệ sĩ" do tác giả Vũ Kim Yến sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2017.

Tư tưởng của Người về văn hóa nghệ thuật là di sản quý báu của văn hóa Việt Nam. Người đã có những chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ văn nghệ sỹ. Đối với văn nghệ sỹ, Bác không chỉ động viên khen ngợi, nhắc nhở phải phấn đấu tiến bộ không ngừng trong nghề nghiệp mà còn có những nhận xét về chuyên môn để giúp các nghệ sĩ khắc phục nhược điểm, nhằm đem lại hiệu quả cao hơn, phục vụ công chúng tốt hơn. Bác còn quan tâm đến đời sống thường ngày và quan hệ xã hội, gia đình của các văn nghệ sĩ.
Nhân dịp kỷ niệm 78 năm Ngày Truyền thống Ngành Văn hoá (28.8.1945 - 28.8.2023) và thiết thực đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII, chuyên mục Mỗi ngày một cuốn sách trân trọng giới thiệu cuốn sách "Bác Hồ với văn nghệ sĩ" do tác giả Vũ Kim Yến sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2017.

BÁC HỒ QUA NHỮNG TÁC PHẨM HỘI HỌA

Tác phẩm "Bác Hồ thăm lớp vỡ lòng"
tranh sơn dầu của tác giả Đỗ Hữu Huề.

Tác phẩm "Bác Hồ đi công tác"
tranh khắc gỗ của tác giả Nguyễn Thụ.

Tác phẩm "Đêm nay Bác không ngủ" tranh khắc gỗ của Nguyễn Nghĩa Duyện.

Tác phẩm "Bác Hồ thăm đơn vị pháo Hồ Tây" tranh sơn dầu của Nguyễn Cao Thương.

Tác phẩm "Bác Hồ" (chân dung Bác) tranh sơn mài của Lê Lam.

Tác phẩm "Bác nói chuyện với bộ đội Mộc Châu" tranh bột màu của Văn Giáo.

Tác phẩm "Nhà Bác ở Phủ Chủ tịch" tranh sơn dầu của Lương Xuân Nhị.

Vẽ Bác Hồ với ngãn chữ Vĩ

Họa sĩ với hơn 2000 bức vẽ chân dung về Bác

Tranh tem về Bác

Kịch Nỗi đau

Kịch Đêm giao thừa

Ca kịch: Hồ Chí Minh – Hồi ức màu đỏ

MỘT SỐ TÁC PHẨM NHẠC, KỊCH VỀ BÁC

Giáo sư Hoàng Chương cho biết thời nhỏ, Bác theo cha là cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, tiếp cận, làm quen với người nghệ sỹ tuồng lỗi lạc là quan Thượng thư Đào Tấn. Theo ông Lê Văn Hiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính, vốn là một kép hát tuồng ở Quảng Nam, trong những năm ở Việt Bắc, mỗi lần họp Chính phủ, Trung ương, trong lúc giải lao, Bác Hồ đều bảo ông Hiến lên diễn tuồng. Ông Hiến kể: “Cũng có khi tôi dè dặt vì thấy có người thích, kẻ không thích...

BÁC HỒ VÀ NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU

Đọc tiếp

Theo Bùi Thanh Hương - Vannghequandoi.com.vn

Nghệ thuật sân khấu thể hiện hình tượng Bác Hồ là một thử thách về tài năng sáng tạo vô cùng hấp dẫn, nhưng cũng đầy những khó khăn, thử thách to lớn với người nghệ sĩ. Bởi, Bác Hồ là Danh nhân văn hóa kiệt xuất, Anh hùng giải phóng dân tộc, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam – nhưng lại là một con người vô cùng giản dị, một tâm hồn thanh cao, trong sáng – tượng trưng cho tâm hồn Việt Nam...

HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ VỚI NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU

Đọc tiếp

Theo NSND Lê Huy Quang - tapchisankhau.vn

Là người khai sáng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho nền văn học nghệ thuật mới, vừa dân tộc vừa hiện đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nghệ thuật là di sản quý báu của văn hoá Việt Nam nói chung và của nghệ thuật nói riêng. Người đã có những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ làm công tác văn hoá nghệ thuật, đặc biệt là văn nghệ sĩ. Bài viết giới thiệu những chuyện kể, những hồi ức cảm động của các văn nghệ sĩ đã có dịp được tiếp xúc với Bác Hồ, được Người quan tâm, thăm hỏi, động viên. Qua đó góp phần làm rõ hơn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác văn hoá nghệ thuật, đặc biệt là tư tưởng và tình cảm yêu thương của Bác Hồ đối với văn nghệ sĩ Việt Nam cũng như hình tượng của Bác trong lòng đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam.

Theo Nguyễn Thị Kim Liên - ditichhochiminhphuchutich.gov.vn

Đọc tiếp

TÌNH CẢM CỦA VĂN NGHỆ SĨ DÀNH CHO NHÀ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

BÁC HỒ QUA NHỮNG TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU

Những bài Hát Hay Nhất Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh

CHỦ ĐỀ: “HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI LÀ NIỀM TIN TẤT THẮNG”

   Nhằm tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2024) và kỷ niệm 113 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (05/6/1911 – 05/6/2024), Chi đoàn Trung tâm tổ chức cuộc thi trực tuyến “Hồ Chí Minh – Người là niềm tin tất thắng”.
   1. Thời gian: Từ 11g00 – 21g00 ngày 08/6/2024 (Thứ bảy)
  2. Hình thức: Thi trực tuyến tại website https://myaloha.vn/ct/FSBXOO.
   3. Thể lệ: Đề thi gồm 20 câu hỏi.
   - Mỗi tài khoản trước khi thực hiện bài thi phải cập nhật đầy đủ, chính xác thông tin cá nhân và đây là căn cứ để Ban Tổ chức xét và và trao giải cho các thí sinh.
   - Mỗi tài khoản chỉ được thi tối đa 01 lần, bài thi được cho là hợp lệ khi người dự thi trả lời đủ 20 câu hỏi.
4. Giải thưởng:
   - Ban Tổ chức sẽ chọn ra 5 người tham gia trả lời xuất sắc nhất.

CUỘC THI TRỰC TUYẾN

THAM GIA NGAY

Phối cảnh không gian văn hoá Hồ Chí Minh

Địa chỉ: Phòng Sinh Hoạt - Tòa Nhà Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm Thanh niên TP. Hồ Chí Minh.
Số 1A Nguyễn Văn Lượng, Phường 6, Quận Gò Vấp.
THÔNG TIN LIÊN HỆ 
TRUNG TÂM HỖ TRỢ HỌC SINH, SINH VIÊN TP. HỒ CHÍ MINH
Địa chỉ: 33 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Bến Nghé, Quận 01
Hotline: 028.3827.7981
Email: Nhatquang@hotrosinhvien.vn
Website: https://sac.vn
© 2021 DEVELOP BY EVENT - ACTIVITY DEPARTMENT

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 1 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1924. Các tác phẩm, bài viết trong tập 1 phản ánh quá trình chuyển biến của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, hình thành tư tưởng cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Vạch trần bản chất xấu xa, lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa; Cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 công bố nhiều bài viết, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quốc tế Cộng sản - tổ chức quốc tế do Lênin sáng lập năm 1919, và các tổ chức thuộc Quốc tế Cộng sản như Quốc tế Nông dân, Ban Phương đông... Qua những bài viết, bài phát biểu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng rất cần sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản về nhiều mặt. Người viết: “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng” (tr. 311) và yêu cầu Quốc tế Cộng sản đặc biệt quan tâm giúp đỡ phong trào công nhân và nông dân - lực lượng cơ bản của cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1 giới thiệu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu và sự trong sáng của tình hữu ái vô sản, luận giải về vấn đề đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa, giữa thuộc địa và chính quốc, giữa phương Đông và phương Tây. Người viết: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (tr. 287), và chỉ rõ: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường” 

TẬP 1

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 2 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, giới thiệu những tác phẩm do Nguyễn ái Quốc viết từ năm 1924 đến năm 1929, tính từ khi Người từ Liên Xô tới Quảng Châu (Trung Quốc) hoạt động đến trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là khoảng thời gian không dài nhưng có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đối với phong trào cách mạng thế giới cũng như ở nước ta và đánh dấu những bước phát triển mới của quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên cương vị là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã tiến hành việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu á nói chung và Đông Dương nói riêng, theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc ở phương Đông. Những năm 1924 - 1929 cũng là thời gian Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tập 2 Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, công bố những tác phẩm chỉ rõ một trong những quan điểm rất quan trọng của Nguyễn ái Quốc là quan điểm về đoàn kết quốc tế mà trước hết là sự cần thiết phải liên minh các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp giải phóng của chính dân tộc mình. Nguyễn ái Quốc chỉ rõ rằng: “Bọn đế quốc cố nhiên là áp bức người An Nam, nhưng đồng thời chúng cũng áp bức cả người Trung Quốc... Chúng ta biết rằng, các dân tộc bị áp bức trên thế giới hiện nay có Ai Cập, Marốc, Xyri, An Nam, Trung Quốc và rất nhiều nước khác. Cho nên, chúng ta cần phải liên hiệp lại, cùng nhau chống chủ nghĩa đế quốc” (tr. 231-232). Người cho rằng, phải “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”

TẬP 2

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 3 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm các tác phẩm, bài nói, bài viết, thư từ, báo cáo (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện trong khoảng thời gian từ đầu năm 1930 đến hết tháng 8-1945, thể hiện những cống hiến sáng tạo về lý luận và thực tiễn của Người đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Nội dung tập 3 phản ánh nhiều khía cạnh liên quan đến việc định ra đường lối chiến lược, sách lược của Đảng; những nguyên tắc xây dựng Đảng; xây dựng khối đoàn kết dân tộc, tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng; đồng thời bao gồm cả những vấn đề về chỉ đạo thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng lực lượng, xác định thời cơ, thúc đẩy thời cơ chín muồi và chớp thời cơ để giành thắng lợi cho cách mạng.
Cùng với tư tưởng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, tập 3 còn phản ánh những hoạt động quốc tế phong phú, tư tưởng đoàn kết quốc tế và những ý kiến đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cách mạng thế giới, cách mạng phương Đông, cách mạng Đông Dương. Đó là những đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bên cạnh tập Nhật ký trong tù, trong tập 3 còn nhiều tác phẩm thơ ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với nội dung phong phú, thể hiện tư tưởng nhân văn (Văn tế cầu hồn kiều bào bị bom Nhật sát hại,...), khơi gợi lòng yêu nước, đoàn kết vùng lên đánh đuổi ngoại xâm của tất cả các tầng lớp đồng bào (Công nhân; Dân cày; Phụ nữ; Ca binh lính; Trẻ con; Ca sợi chỉ; Hòn đá, v.v.). Một số bài thơ có nội dung đả kích, châm biếm bọn phát xít, thực dân thống trị, khẳng định sự thất bại, sụp đổ của chúng đang đến gần (Tặng Thống chế Pêtanh; Tặng Toàn quyền Đờcu; v.v.). Các bài thơ của Người thể hiện bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người, có tác dụng tuyên truyền, lan tỏa rộng rãi. Những bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn này có đóng góp quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của kho tàng văn học cách mạng nước ta.

TẬP 3

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 4 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài viết, bài nói, điện văn, thư từ... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết từ ngày 2-9-1945 đến hết năm 1946.
Mở đầu tập 4 là kiệt tác Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng kết những giá trị chung của nhân loại trong cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng thiêng liêng của các dân tộc và tiến trình đấu tranh vì nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên ngôn trước toàn thế giới về kỷ nguyên độc lập của dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ thiện chí hòa bình và quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết bảo vệ nền độc lập mới giành lại được sau hơn 80 năm phải sống dưới ách cai trị của đế quốc xâm lược.
Nội dung nổi bật của những tác phẩm trong tập 4 phản ánh nhiều hoạt động sôi nổi, phong phú và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam mới - trước muôn vàn khó khăn về kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội sau Cách mạng Tháng Tám. Chính ở thời điểm cực kỳ quan trọng và đầy thử thách này, ý chí độc lập dân tộc và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện và tỏa sáng. Người đã nhạy bén và sáng suốt chọn lựa những đối sách đúng đắn, giải quyết kịp thời và có hiệu quả những nhiệm vụ vô cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua ghềnh thác hiểm nguy, tiến lên phía trước.
Tập 4 Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, phản ánh sâu sắc tư tưởng, đường lối, chiến lược, sách lược cũng như năng lực tổ chức thực tiễn và sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta để xây dựng thành công chính quyền nhà nước mới và tổ chức ổn định đời sống của các tầng lớp nhân dân sau cách mạng. Điều này được thể hiện ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam mới ngày 3-9-1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội khác; thực hiện tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; xoá bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết...
Nhiều tác phẩm trong tập 4 thể hiện ý chí đấu tranh ngoan cường cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trả lời các nhà báo nước ngoài sau khi Quốc hội giao quyền Chủ tịch nước, Người khẳng định: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"

TẬP 4

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 5 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài nói, bài viết, thư từ, điện văn, báo cáo (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 1-1-1947 đến cuối tháng 12-1948, thể hiện sâu sắc, phong phú những quan điểm, chiến lược, sách lược cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong hai năm đầu của công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Nhận diện đúng bản chất của kẻ thù, đánh giá chính xác tình hình, tương quan lực lượng giữa ta và địch, trên cơ sở đó hoạch định đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn là nội dung nổi bật của những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tập này.
Nổi bật trong tập 5 là những bức thư của Người: Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ; Thư gửi các đồng chí Trung Bộ; Chủ nghĩa cá nhân và đặc biệt là tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Trong các tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cuộc trường kỳ kháng chiến này tức là dân tộc cách mệnh đến trình độ tối cao. Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi một đồng chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to; sai một ly đi một dặm” (tr. 87). Người biểu dương những ưu điểm của cán bộ, đảng viên, đồng thời nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm, những biểu hiện lệch lạc, yếu kém của cán bộ Đảng và các cấp chính quyền, đoàn thể như bè phái, hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa, vô tổ chức, vô kỷ luật - những “căn bệnh” có hại đến sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, có hại đến uy tín của Đảng và chính quyền cách mạng. Người yêu cầu: “Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng” và nhấn mạnh: “Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang.

TẬP 5

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 6 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm 224 tác phẩm, bài nói, bài viết, thư, điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 1-1-1949 đến ngày 31-12-1950, phản ánh sâu sắc quan điểm cơ bản về đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc mau tới thắng lợi.
Tập 6, Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba bao gồm toàn bộ những bài trong những năm 1949 - 1950 đã công bố trong lần xuất bản thứ hai, đồng thời bổ sung 58 bài mới sưu tầm được. Chúng tôi cũng đưa vào phần Phụ lục Danh mục các Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký từ năm 1949 đến năm 1950 và một bài tường thuật lời phát biểu của Người. Phần Chú thích và Bản chỉ dẫn tên người được cập nhật thông tin tư liệu và nhận định mới.

TẬP 6

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 7 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những bài nói, bài viết, thư từ, điện văn,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 1-1-1951 đến cuối tháng 12-1952.
Nội dung tập 7 thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và những chủ trương đối nội, đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng Đảng ta lãnh đạo toàn quân, toàn dân đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở giai đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công.
Tập 7 tập trung nhiều tác phẩm thể hiện chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến” (tr. 29). Theo Người, để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, phải chú trọng xây dựng và phát triển quân đội: “Chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân. Đồng thời, phải phát triển và củng cố dân quân du kích về mặt: tổ chức, huấn luyện, chỉ đạo và sức chiến đấu. Phải làm cho lực lượng của dân quân du kích thành những tấm lưới sắt rộng rãi và chắc chắn, chăng khắp mọi nơi, địch mò đến đâu là mắc lưới đến đó”

TẬP 7

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 8 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, gồm 231 tác phẩm, bài nói, bài viết, thư, điện (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từ ngày 1-1-1953 đến ngày 21-7-1954.
Đây là giai đoạn đấu tranh quyết liệt và có ý nghĩa quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, và can thiệp Mỹ của dân tộc ta; đồng thời, đây cũng là thời gian Đảng ta quyết định đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với giải phóng giai cấp nông dân khỏi ách thống trị phong kiến.
Các tác phẩm giới thiệu trong tập 8 phản ánh những hoạt động phong phú, sôi nổi và sự chỉ đạo sát sao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với từng vấn đề của đất nước nhằm thực hiện thành công các nhiệm vụ quan trọng nói trên.
Nhiều tác phẩm trong tập 8 thể hiện tập trung những quan điểm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong Diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ngày 25-1-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ âm mưu và hành động hiếu chiến của thực dân Pháp trong tình thế thất bại của chúng. Bị thất bại liên tiếp trên chiến trường, thực dân Pháp cầu xin Mỹ tăng thêm viện trợ; đẩy mạnh càn quét, bắt lính để thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: “tuy thắng lợi nhiều, chúng ta quyết không được chủ quan, khinh địch” (tr.27). Người khẳng định, “kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ và gian khổ. Và từ nay cuộc chiến tranh giữa ta với địch sẽ gay go, phức tạp hơn” (tr.27).
Ngoài những vấn đề chủ yếu nêu trên, trong tập 8 còn có nhiều tác phẩm thể hiện những luận điểm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, dân tộc, tôn giáo, v.v..

TẬP 8

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 9 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, công bố những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 22-7-1954 đến ngày 21-6-1955.
Các tác phẩm được công bố trong thời gian này phản ánh những hoạt động phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm đầu tiên sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước còn tạm thời bị chia cắt, miền Nam còn nằm dưới sự thống trị của chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới đã mở ra những điều kiện hết sức thuận lợi cho miền Bắc đi vào khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, song cũng đặt ra nhiều nhiệm vụ mới chưa từng có tiền lệ, những khó khăn, thách thức cho nhân dân ta, nhất là cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam trong cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ nhằm tiến tới độc lập, hòa bình và thống nhất nước nhà.
Những tác phẩm trong tập 9 đã phản ánh sâu sắc quan điểm, đường lối chiến lược, sách lược và sự chỉ đạo sát sao, linh hoạt, mềm dẻo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong những năm 1954 - 1955.

TẬP 9

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 10 bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những bài viết, bài nói, điện văn, thư từ,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 22-6-1955 đến ngày 6-7-1957.
Nội dung tập 10 phản ánh những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối chiến lược, sách lược và phương thức chỉ đạo các phong trào cách mạng nước ta trong những năm đầu sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển mới:
Hiệp định Giơnevơ đã chính thức thừa nhận Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nhưng đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đang ở giai đoạn đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam vẫn còn nằm dưới sự thống trị của chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ.
Nhiều tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tập này phản ánh sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Người trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc bị tàn phá trong chiến tranh. Người khẳng định: Lúc này kinh tế là mặt trận chính của chúng ta. Chúng ta phải khôi phục nền kinh tế quốc dân đạt mức năm 1939. ở nông thôn, phải làm xong cải cách ruộng đất để hoàn thành cuộc cách mạng phản phong, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiêp. ở thành thị, phải điều chỉnh, cải tạo công thương nghiệp; khôi phục và phát triển dần những xí nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh; phải từng bước phát triển kinh tế hợp tác xã, kinh tế quốc doanh; tổ chức lại sản xuất và quản lý sản xuất theo kế hoạch, bình ổn vật giá, thăng bằng thu chi ngân sách. Đồng thời, phải đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa - xã hội, phát triển khoa học - kỹ thuật, củng cố quốc phòng, mở rộng công tác đối ngoại... Người viết: “Củng cố miền Bắc tức là giúp đỡ một cách thiết thực đồng bào miền Nam đấu tranh đòi hòa bình và thống nhất”

TẬP 10

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 11 của bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm các bài nói, bài viết, điện văn, thư từ,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 6-7-1957 đến ngày 31-12-1958. Những tác phẩm in trong tập này phản ánh những quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối đối nội, đối ngoại của cách mạng nước ta, nhằm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng Việt Nam của thời kỳ lịch sử mới: “Đấu tranh thống nhất Tổ quốc và từng bước xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (tr.63), để tiến tới: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (tr.117).
Nhiều tác phẩm trong tập 11 đã phản ánh sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Người nói rõ: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình” (tr.259).
Trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một số bài báo giới thiệu những kinh nghiệm cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc để cán bộ, nhân dân nghiên cứu, học tập.
Trong tập 11 cũng phản ánh những hoạt động phong phú, tư tưởng đối ngoại nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài” (tr.269).
Nội dung quan trọng, xuyên suốt tập 11 là những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ.

TẬP 11

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 12 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài nói, bài viết, điện văn, thư từ,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ đầu năm 1959 đến hết năm 1960.
Nội dung tập 12 thể hiện sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược như Người chỉ rõ: "cách mạng Việt Nam hiện nay có hai nhiệm vụ phải đồng thời tiến hành: nhiệm vụ xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai nhiệm vụ ấy đều nhằm một mục tiêu chung là: Củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ" (tr. 411).
Nhiều tác phẩm trong tập 12 đã thể hiện những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ; về xây dựng con người mới; về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; về phát triển văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Các bài viết mang nội dung về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; những quan điểm của Người về cách mạng tư tưởng - văn hoá, triệt để xóa bỏ những tàn dư tư tưởng và hủ tục của xã hội cũ, xây dựng nền văn hóa mới với nội dung mang đậm bản sắc dân tộc được phản ánh một cách cụ thể và phong phú.
Tập 12 còn có nhiều tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng vũ trang, thể hiện sự quan tâm của Người đối với việc xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân. Người chỉ rõ, quân đội ta đang gánh vác một nhiệm vụ hết sức nặng nề và mới mẻ, phải vừa sản xuất, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải vừa từng bước xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, để có đủ sức mạnh làm tròn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Một nội dung quan trọng của tập 12 là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đường lối, phương hướng, bước đi của cách mạng miền Nam. Người đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo cụ thể và phù hợp với thực tiễn cách mạng miền Nam, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nhằm phá thế kìm kẹp của địch, mở ra phong trào cách mạng rộng lớn, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Tư tưởng chỉ đạo của Người thể hiện đường lối cách mạng đúng đắn, lập trường kiên quyết của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước.

TẬP 12

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 13 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những tác phẩm, bài viết, bài nói, thư, điện... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1-1961 đến tháng 12-1962.
Những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tập 13 thể hiện rõ tư tưởng của Người về thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; các vấn đề quốc tế đương đại và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm 1961 - 1962 thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Người trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Những bài phát biểu của Người tại cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III, Hội Nhà báo Việt Nam, Hội nghị tổng kết phong trào thi đua dạy tốt, học tốt của ngành giáo dục… đã thể hiện rõ những quan điểm về xóa bỏ những tàn dư tư tưởng lạc hậu và hủ tục của xã hội cũ, xây dựng tư tưởng mới, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vấn đề xuyên suốt tập 13 là những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng - yếu tố tiên quyết bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Người chỉ rõ, công tác xây dựng Đảng phải nhằm làm cho Đảng thống nhất về ý chí và hành động, có đường lối đúng, có tư tưởng cách mạng triệt để, có tổ chức vững mạnh và đội ngũ đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, giỏi về chuyên môn, gắn bó chặt chẽ với quần chúng và hoàn thành tốt vai trò tiền phong, gương mẫu của mình. Trong xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý tới công tác xây dựng Đảng ở cơ sở, nhất là phải nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của chi bộ vì chi bộ là nơi trực tiếp biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.

TẬP 13

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 14 của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, gồm những tác phẩm, bài viết, bài nói, thư, điện,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1963 đến năm 1965. Các tác phẩm trong tập này phản ánh tư tưởng và hoạt động của Người trong quá trình lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của đất nước, đó là: "miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam đấu tranh giải phóng khỏi sự xâm lược của đế quốc Mỹ" (tr.451).
Các tác phẩm trong tập 14 phản ánh khát vọng và quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Người chỉ rõ: "Mỹ là một nước đế quốc lớn nhất, giàu nhất, mạnh nhất trong phe đế quốc chủ nghĩa. Nước ta chỉ có hơn 30 triệu dân, lại nghèo, nhưng chúng ta dám đánh đế quốc Mỹ và nhất định đánh thắng" (tr.692).
Trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã sử dụng tất cả các loại vũ khí, trừ bom nguyên tử. Từ tháng 12-1961, đế quốc Mỹ bắt đầu dùng máy bay rải chất độc hóa học xuống làng mạc miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần hành động dã man đó và khẳng định hành động điên cuồng, dã man của Mỹ - Diệm sẽ nhanh chóng đưa chúng đến thất bại.
Một vấn đề lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức lưu tâm trong thời gian này là việc nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Người phê phán một bộ phận đảng viên "coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài" (tr.469) và chỉ rõ rằng: "Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân" (tr.468).
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế cũng là một nội dung cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong tập 14. Người khẳng định: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là thắng lợi của chúng ta" (tr.18). Khi đất nước bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Người kêu gọi toàn Đảng, toàn dân cùng đoàn kết tiến lên, "đã đoàn kết phải càng thêm đoàn kết, đã mạnh mẽ phải càng mạnh mẽ thêm" (tr.242); "đoàn kết đã thắng ở miền Bắc, thì đoàn kết nhất định sẽ thắng ở miền Nam" (tr.33).

TẬP 14

HỒ CHÍ MINH TOÀN TẬP

Tập 15 bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản lần thứ ba, bao gồm những bài nói, bài viết, thư, điện văn,... (gọi chung là tác phẩm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 1-1-1966 đến khi Người từ biệt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi vào cõi vĩnh hằng.
Chiến tranh càng ác liệt thì tình cảm và sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào và chiến sĩ miền Nam càng sâu nặng. Tập 15 bao gồm nhiều điện, thư của Người chúc mừng Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chúc mừng chiến thắng của đồng bào và chiến sĩ. Chỉ bốn ngày sau khi quân dân miền Nam tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Người gửi thư khen quân và dân ta ở miền Nam đánh rất giỏi, thắng rất to.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tác phẩm cuối của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Đây là một văn kiện lịch sử hết sức quan trọng, được Người chấp bút từ năm 1965, khi đồng bào, cán bộ và chiến sĩ cả nước sôi nổi thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm lần thứ 75 sinh nhật của Người. Di chúc được Người bổ sung qua các năm 1968, 1969, được Đảng và Nhà nước ta chính thức công bố trong lễ truy điệu của Người.
Ngoài những nội dung lớn trên đây, tập 15 còn bao gồm một số bài trả lời phỏng vấn báo chí, nhiều điện, thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, nhân dân các địa phương, các chính khách, bạn bè quốc tế, thể hiện quan điểm, tình cảm và hoạt động phong phú của Người. Tập này cũng đăng toàn văn Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969. Điếu văn khẳng định cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng ta, dân tộc ta và khẳng định lời thề của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm đưa ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thắng lợi cuối cùng lúc vĩnh biệt Người.

TẬP 15